Thị trường chứng khoán cô đặc ?

Từ khi đại dịch Covid-19 đến nay, thị trường chứng khoán Việt Nam là một trong những thị trường có mức tăng cao nhất thế giới.

Thị trường chứng khoán 2007 - 2021: Lịch sử lặp lại?
 
Nhà đầu tư kỳ vọng vào hiệu quả của doanh nghiệp khi dịch bệnh được kiểm soát tốt trong năm 2020, tiền sẽ đổ tiếp vào thị trường khi tình hình dịch phức tạp hơn trong mấy tháng qua ? Tâm lý của thị trường có những lúc lấn lướt được nội tại của nó. Nhưng nếu nhìn lại tỷ trọng của các ngành đang dẫn dắt thị trường một sự dè chừng của nhà đầu tư nhỏ lẻ là không thừa thãi.
 
Nhìn rộng hơn ở thị trường chứng khoán Việt nam, nếu lấy 100 doanh nghiệp có vốn hóa lớn nhất ở cả 2 sàn là Hose và HNX thì tổng vốn hóa đến ngày 09/07 là 236,73 tỷ USD. Trong số này, chỉ riêng các ngân hàng đã chiếm 34,55% và các công ty bất động sản chiếm 21,39%. Như vậy, chỉ 2 nhóm ngành là ngân hàng và bất động sản đã chiếm đến 55,94%, một tỷ lệ khó có ở bất kỳ thị trường chứng khoán nào.
 
Thử nhìn sang các nước khá tương đồng với Việt Nam trong khu vực ASEAN là Malaysia, Indonesia và Thái Lan, chúng ta mới thấy rằng tỷ trọng của 2 ngành ngân hàng và bất động sản không cao như vậy. Rất ngạc nhiên khi các ngân hàng của Indonesia chiếm đến 39,73% vốn hóa của top 100 doanh nghiệp, mà thực ra như là toàn thị trường. Nhưng ở Indonesia, doanh nghiệp bất động sản chỉ chiếm 1,95% vốn hóa.
 
Tỷ trọng của ngành ngân hàng ở Maylaysia thấp hơn, với mức 23,46%. Trong khi đó bất động sản chiếm 3,81% mức vốn hóa. Tỷ trọng ngành ngân hàng trong tổng mức vốn hóa ở Thái Lan còn thấp hơn, chỉ ở mức 9,67% và bất động sản là 3,98%.
 
Các con số này cho thấy một sự cô đặc khá lớn của thị trường chứng khoán Việt nam, phụ thuộc khá nhiều vào lĩnh vực ngân hàng và bất động sản. Trong đó, phải thực sự ngạc nhiên và cần để ý đến tỷ trọng quá lớn của ngành bất động sản trong tổng vốn hóa. Mà điều thú vị hơn là không chỉ số vốn hóa lớn, số lượng doanh nghiệp trong hai lĩnh vực này cũng chiếm đáng kể. Ví dụ một doanh nghiệp bất động sản có mức vốn hóa 10 tỷ đô, sẽ không giống như 10 doanh nghiệp 1 tỷ đô, cùng nằm trong nhóm top 100.
 
Top 100 doanh nghiệp vốn hóa lớn nhất ASEAN-4
 
 

Indonesia

Malaysia

Thái Lan

Việt Nam

Ngân hàng

39,37%

23.46%

9,67%

34,55%

Bất động sản

1,95%

3,81%

3,98%

21,39%

Vốn hóa

410,26 tỷ USD

336,46 tỷ USD

445,16 tỷ USD

236,73 tỷ USD

Nguồn: dữ liệu của Eikon
 
Kể từ khi đại dịch Covid-19 bùng nổ, tính trong giai đoạn từ tuần 27/03/2020 đến 09/07/2021 thì VNIndex đã tăng 93,54%, JKSE của Indonesia tăng 32,87%, KLCI của Malaysia tăng 13,22% và SET của Thái Lan tăng 41,13%. Nhưng không như Việt Nam, các nước này đều chưa quay lại thời điểm trước khi dịch xảy ra.
 
Mức độ tăng của VNIndex có thể so sánh với S&P 500 của Mỹ, nhưng câu chuyện tăng ở Mỹ có “thesis” riêng. Ngành công nghệ thông tin chiếm tỷ trọng cao nhất trong S&P 500 ở 27,43%, tài chính chỉ 11,27% và bất động sản là 2,58%. Nhưng lý do tăng ở Mỹ có thể được giải thích bởi tiền rẻ và nhiều qua các chính sách hỗ trợ của Fed cũng như Bộ tài chính, rồi các công ty công nghệ và y tế được hưởng lợi nhiều từ Covid, giãn cách xã hội.
 
Thị trường chứng khoán cô đặc ?
Nguồn: dữ liệu của Eikon
 
Nếu động cơ có vấn đề ?
 
Cổ phiếu ngành ngân hàng và tài chính nói chung cùng với bất động sản được xếp vào nhóm chu kỳ (cyclicals), nghĩa là đi cùng với chu kỳ của nền kinh tế: kinh tế mở rộng thì lên, kinh tế thu hẹp thì xuống.
Mặc dù mới đây các ngân hàng lạc quan báo cáo lãi nhưng trong những quý sắp đến, tình hình khó có thể sáng sủa như kế hoạch. Ngân hàng thế giới (WB) vào khoảng giữa tháng 06/2021 đã công bố báo cáo triển vọng kinh tế toàn cầu, trong đó có nhấn mạnh 3 điểm là: sự hồi phục của các nền kinh tế mới nổi không thể được như các nước phát triển vì thiếu vắc-xin và biến thể virút mới, lạm phát ở các nước đang phát triển còn tạo áp lực hơn ở các nước phát triển, và chi phí thương mại (trade cost) ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất đi từ các nước đang phát triển. Chính vì vậy mà WB thông tin rằng khoảng 40% các nước đang phát triển phải tính toán lại dự báo GDP của mình trong năm 2021, 2022.
 
Trong trường hợp của Việt Nam, với tình hình diễn biến phức tạp của Covid-19 như hiện nay thì khả năng nền kinh tế đạt được như dự báo 6,5% là rất nhiều thách thức. Hoạt động sản xuất bị gián đoạn ở các khu công nghiệp, và đặc biệt đầu tàu kinh tế Tp.HCM phải giãn cách theo Chỉ thị 16 thì nhiều khả năng tăng trưởng của Việt nam chỉ còn ở mức 4,5%-5%.
 
Tăng trưởng GDP của ASEAN-4
 
 

2019

2020e

2021f

2022f

2023f

Indonesia

5,0

-2,1

4,4

5,0

5,1

Maylaysia

4,3

-5,6

6,0

4,2

4,4

Thailand

2,3

-6,1

2,2

5,1

4,3

Vietnam

7,0

2,9

6,6

6,5

6,5

Nguồn: World Bank. e: ước tính; f: dự báo
 
Ngoài ra, mối quan hệ rất gần giữa ngành bất động sản và ngành ngân hàng còn có một nguy cơ lớn là khó khăn của ngành này sẽ được truyền dẫn qua ngành kia, dễ tạo khả năng khuếch đại. Trong khi ngành ngân hàng vẫn chưa xử lý xong được các trường hợp ngân hàng 0 đồng, việc tái cơ cấu nợ theo Thông tư 01 và 03 vẫn là hộp đen trong việc biết được lợi nhuận của các ngân hàng trong thời gian tới.
 
Để có sức đẩy bền
 
Nếu nhìn tỷ trọng của các ngành trong một chỉ số chứng khoán như một danh mục đầu tư, thì việc đa dạng hóa các ngành là hết sức quan trọng. Hơn thế nữa, những ngành là động lực chính nên bao gồm các lĩnh vực sản xuất kinh doanh trực tiếp, gắn với yếu tố khoa học công nghệ. Các doanh nghiệp trong nhóm top 100 vốn hóa lớn nhất của Việt nam cũng có trong nhiều lĩnh vực khác nên sự lớn mạnh của các doanh nghiệp này cũng tạo sự cân bằng hơn cho thị trường Việt nam. Nhiều doanh nghiệp không phải ngành ngân hàng hay bất động sản lớn chưa niêm yết cũng có thể là một yếu tố để tạo sự cân bằng hơn khi được chào bán cổ phiếu ra công chúng.
 
Nhưng nếu các doanh nghiệp trong các lĩnh vực khác không lớn mạnh nhanh được, thì cũng khó mà giảm bớt được số lượng hay trọng lượng của các ngân hàng, công ty bất động sản trong top 30, 50 hay thậm chí 100. Lúc chu kỳ kinh tế lên thì không sao, lúc chu kỳ xuống thì coi chừng “lên thang bộ xuống thang máy”.

Chàng-Ngốc-Già (TS. Võ Đình Trí) (IPAG Business School Paris và Trường Đại học Kinh tế TP HCM)

Link nội dung: https://cafebusiness.vn/thi-truong-chung-khoan-co-dac-21004.html