Cổ đông Vinafood II chờ đợi gì ở tân Chủ tịch Võ Thanh Hà?

Hàng chục, hàng trăm ngàn tỷ đồng vốn nhà nước và của nhà đầu tư tư nhân đang bị bào mòn, nằm lãng phí tại các doanh nghiệp CPH hoạt động kém hiệu quả. Thực trạng này đòi hỏi những giải pháp mạnh tay.

Vinafood 2, nỗi cay đắng của T&T Group

Nửa đầu năm nay, công ty mẹ - Tổng công ty Lương thực miền Nam (Vinafood II) báo lỗ sau thuế 160 tỷ đồng, gấp 3 lần so với cùng kỳ năm 2019.

Vinafood II là công ty sản xuất gạo lớn nhất cả nước, với mạng lưới 22 công ty con, công ty liên kết; độc quyền trong xuất khẩu gạo, được hưởng nhiều ưu đãi của Chính phủ, nhưng hiệu quả kinh doanh thấp, thua lỗ nặng đã trở thành câu chuyện kéo dài nhiều năm nay. Lỗ lũy kế của Vinafood II tại thời điểm cuối tháng 6/2020 lên tới 2.188 tỷ đồng.

Không chỉ thua lỗ, Vinafood II cũng vướng nhiều ồn ào trong việc quản lý, sử dụng sai quy định, gây thất thoát tài sản nhà nước với số tiền lên tới hàng ngàn tỷ đồng. Cuối tháng 9 vừa qua, Tòa án Nhân dân TP.HCM đưa ra xét xử vụ án liên quan sai phạm nghiêm trọng của các cựu lãnh đạo Vinafood II.

Còn nhớ, đầu năm 2018, Tập đoàn T&T Group của doanh nhân Đỗ Quang Hiển đã trở thành cổ đông chiến lược của Vinafood II với tỷ lệ nắm giữ 25%. Việc ông Hiển bỏ ra hơn 1.200 tỷ đồng để đầu tư được đánh giá như “phao cứu sinh” cho Vinafood II lúc bấy giờ. Vậy nhưng, những “di chứng” trước CPH và tình trạng “bình mới, rượu cũ” trong quản trị doanh nghiệp, cơ chế bó cứng ở Vinafood II đã khiến nhà đầu tư chiến lược bất lực nhìn khối tài sản bị bào mòn.

Công ty của bầu Hiển là đơn vị duy nhất đăng ký làm nhà đầu tư chiến lược của Vinafood II

Tập đoàn T&T Group của doanh nhân Đỗ Quang Hiển là cổ đông chiến lược của Vinafood II với tỷ lệ nắm giữ 25%

Thêm vào đó, do những hệ lụy của giai đoạn trước CPH nên trong gần 2 năm kể từ thời điểm IPO thành công, các thủ tục quyết toán vốn nhà nước, bàn giao sang công ty cổ phần của Vinafood II vẫn chưa được hoàn tất. Điều này khiến Vinafood II phải hoạt động trong trạng thái cầm chừng với nguồn vốn thiếu hụt, bị động trong việc thu mua và dự trữ lúa gạo. Tính đến cuối năm 2019, giá trị tồn kho của doanh nghiệp này chỉ đạt khoảng 727 tỷ đồng, thấp nhất trong nhiều năm trở lại đây. Do đó, khi Covid-19 xảy ra, giá nguyên liệu lúa gạo trong nước tăng khoảng 25%, Vinafood II không còn lãi trong nhiều hợp đồng cố định giá đã ký với khách hàng trước đó.

Licogi chỉ còn “vang bóng một thời”

Vì sao Tổng công ty Licogi thua lỗ kỷ lục?

 Trụ sở Tổng công ty Licogi trên đường Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội

CPH từ năm 2015, với sự tham gia của nhà đầu tư chiến lược là Công ty CP Bất động sản Khu Đông và sau đó là Bất động sản Gia Cường (2 doanh nghiệp liên quan đến Tập đoàn MIK Group), những tưởng, Licogi sẽ có bước đột phá, song bức tranh tài chính - kinh doanh của tổng công ty này ngày càng kém khả quan.

Hai quý đầu năm 2020, Licogi lỗ 33 tỷ đồng, tổng nợ phải trả trên báo cáo tài chính hợp nhất đến cuối quý II gần 4.000 tỷ đồng, gấp 10 lần vốn chủ sở hữu và chiếm 89,3% tổng nguồn vốn. 

Báo cáo kiểm toán của AASC vào cuối năm 2019 đã nhấn mạnh việc tồn tại yếu tố không chắc chắn về khả năng hoạt động liên tục của Licogi khi tính đến 31/12/2019, nợ ngắn hạn của Tổng công ty đã vượt tài sản ngắn hạn 1.371 tỷ đồng, lỗ lũy kế chiếm 65,87% vốn điều lệ.

Việc duy trì sử dụng nợ vay quá lớn, gấp khoảng 10 lần vốn chủ sở hữu đã đè nặng lên khả năng chi trả lãi vay của Licogi và ảnh hưởng lớn đến hiệu quả kinh doanh. Kinh doanh thua lỗ, tài chính mất cân đối khiến hồ sơ năng lực của Licogi giảm điểm, rất khó khăn khi đấu thầu, thiếu vốn để đầu tư cho dự án mới. Doanh nghiệp ngày càng khó khăn trong vòng luẩn quẩn không lối thoát.

Phương án tái cấu trúc nguồn vốn, “chìa khóa” giúp Licogi thoát lầy cũng đi vào ngõ cụt. Nếu tăng vay nợ, chẳng những sẽ làm tăng thêm hệ số vay nợ, làm tăng rủi ro thanh khoản, mà việc tìm kiếm đối tác cho vay cũng không dễ dàng. Đồng thời, Licogi sẽ phải chịu lãi suất cao hơn để bù đắp cho rủi ro mà bên cho vay phải nhận, làm tăng thêm gánh nặng chi phí lãi vay.

Còn với phương án tăng vốn cổ phần, do Licogi nằm trong danh sách doanh nghiệp nhà nước (DNNN) sẽ thoái vốn, nên Nhà nước sẽ không bỏ thêm vốn vào doanh nghiệp, đồng nghĩa với việc phủ quyết nếu Hội đồng Quản trị đưa ra.

Thế “tam mã” trong cơ cấu cổ đông, với Bộ Xây dựng (nay là Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước) sở hữu 40,71%, Bất động sản Khu Đông và Bất động sản Gia Cường sở hữu lần lượt 35% và 19,24%, theo nhận xét của một nhân sự từng tham gia Ban Kiểm soát Licogi, gần như không thay đổi được cục diện ở doanh nghiệp này. Các quyết định liên quan đến kinh doanh, tài chính hầu như đều rơi vào bế tắc do không có sự đồng thuận. Cơ hội kinh doanh trôi qua nhanh bởi cổ đông nhà nước thường cho ý kiến rất chậm trễ. Đáng chú ý là hơn 3 ha Khu đô thị Thịnh Liệt rơi vào cảnh bê trễ, phơi nắng, phơi sương cả thập kỷ nay.

Hình bóng một tổng công ty hàng đầu về nền móng công trình ngầm với gần 60 năm lịch sử hoạt động đang dần khuất dạng trên thị trường.

Vì đâu nên nỗi?

Tháng 3 năm nay, trong khuôn khổ Đại hội đồng cổ đông bất thường của Vinafood II, ông Đỗ Ngọc Khanh, đại diện cổ đông chiến lược Tập đoàn T&T (sở hữu 33,74% vốn điều lệ Vinafood II) đã kiến nghị HĐQT, Ban Giám đốc phải xây dựng các mục tiêu, chiến lược cụ thể, báo cáo Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp và cổ đông chiến lược, nhanh chóng ổn định sản xuất, giảm lỗ, hòa vốn trong giai đoạn 2020 - 2021 và bắt đầu có lãi từ năm 2021 - 2022.

Suốt 2 năm qua, tại nhiều cuộc họp của lãnh đạo Vinafood II, đại diện T&T Group đều đưa ra các đề xuất với nhiều phương án nhằm vực dậy doanh nghiệp. Tuy nhiên, những đề xuất này đa số không được lắng nghe.

Với nhiều năm tham gia quản trị trong các DNNN nắm cổ phần chi phối như Tổng công ty Máy động lực và máy nông nghiệp Việt Nam (VEAM), ông Ngô Văn Tuyển, chuyên gia kinh tế nhận xét: “Các cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước hiện giữ nhiều quyền can thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp, nhưng lại thiếu chuyên nghiệp và trách nhiệm không rõ ràng”.

Cụ thể, quyết định của bộ máy lãnh đạo công ty, người đại diện phần vốn nhà nước còn phụ thuộc vào quyết định của Nhà nước, còn nặng nề cơ chế xin - cho, ảnh hưởng đến sự chủ động của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và không bắt kịp xu hướng công nghệ.

Có ý kiến cho rằng, nhà đầu tư chiến lược bỏ tiền vào doanh nghiệp là để “chờ thời”, có cơ hội mua cổ phần thoái vốn giá rẻ khi doanh nghiệp hoạt động èo uột. Tuy nhiên, đó là cách nhìn nhận sai lầm.

Bà Vũ Thị Thuận, Chủ tịch Traphaco cho rằng, khi nhà đầu tư đã bỏ vốn vào DNNN qua CPH, họ không dại gì muốn doanh nghiệp không tăng trưởng và lợi nhuận âm. Oái ăm là, có những nhà đầu tư bỏ ra hàng ngàn tỷ đồng để mua lại cổ phần từ Nhà nước, nhưng không phải cổ đông lớn nhất, nên các bước đi vẫn phụ thuộc vào người khác, bất lực nhìn khối tài sản ngàn tỷ hao mòn.

Tìm lối ra

Chuyên gia Võ Trí Thành, khi trao đổi về vấn đề này đã đặt ra câu hỏi: CPH đã thực chất chưa, bởi rất nhiều doanh nghiệp CPH, nhưng tỷ lệ CPH rất nhỏ. Tính đến hết năm 2017, tỷ lệ vốn nhà nước thực bán qua CPH và thoái vốn chỉ chiếm 7,5% tổng vốn nhà nước nắm giữ. Trong giai đoạn 2011 - 2016, trong số 426 doanh nghiệp, nhà đầu tư chiến lược chỉ nắm giữ 7,3% vốn điều lệ của doanh nghiệp CPH. Vì thế, không thể xoay chuyển được chất lượng quản trị.

Để tăng động lực cho các nhà đầu tư tư nhân và đem lại hiệu quả thật sự cho doanh nghiệp sau CPH, nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng, DNNN nên “lùi chân” để doanh nghiệp tư nhân dần “thế chân”. Các đại biểu cho rằng, chủ trương đúng đắn và cần phải được quán triệt xuyên suốt trong quá trình cải cách DNNN, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong toàn bộ nền kinh tế là đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa DNNN một cách thực chất và thoái vốn nhà nước ra khỏi hầu hết các lĩnh vực kinh doanh mà Nhà nước không cần phải nắm giữ theo đúng tinh thần các nghị quyết của Đảng.

Theo chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long, bên cạnh mục tiêu tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước với hiệu quả cao nhất, việc CPH, thoái vốn nhà nước còn nhắm đến những mục tiêu quan trọng và dài hạn hơn là giúp nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp, giữ gìn thương hiệu, ngành nghề kinh doanh chính.

Là một nhà đầu tư bỏ vốn vào nhiều doanh nghiệp CPH, ông Phạm Quang Dũng, nguyên đại biểu Quốc hội cho rằng, CMSC cần khẩn trương thúc đẩy và thực hiện việc thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp để tránh tình trạng “cha chung không ai khóc”, càng kéo dài thì Nhà nước càng mất vốn và tiếp tục thua lỗ tại các doanh nghiệp.

Với bộ máy công ty liên kết công ty con rất lớn như ở Vinafood II và Licogi, cổ đông nhà nước cần thúc đẩy HĐQT khẩn trương thực hiện cấu trúc lại các khoản đầu tư ra ngoài, thoái vốn tại các công ty hoạt động không hiệu quả, tái cấu trúc hệ thống quản lý quản trị các công ty trực thuộc, giải thể, đóng cửa các đơn vị hoạt động không hiệu quả…

Ở những doanh nghiệp đang quản lý quỹ đất rất lớn, CMSC nên cùng doanh nghiệp phối hợp với địa phương hoàn thiện phương án sử dụng đất theo chỉ đạo của Thủ tướng chính phủ và phê duyệt của Bộ Tài chính, nhằm tránh xảy ra lãng phí, thất thoát tài sản nhà nước

Nếu doanh nghiệp có vốn nhà nước lớn như Vinafood II, Licogi... tiếp tục quản trị như hiện nay và trượt dài trong thua lỗ, không nhận được sự hỗ trợ từ ngân hàng, mất thanh khoản, thì có thể phải dừng hoạt động bất kỳ lúc nào. Câu hỏi đặt ra là, ai sẽ chịu trách nhiệm khi những lời cảnh báo về nguy cơ này đã được đưa ra?